Tiến bộ và công bằng xã hội mà nền tảng là bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong suốt quá trình đổi mới và hội nhập, Đảng ta luôn đặt ra yêu cầu có tính nguyên tắc là phát triển kinh tế phải đi đôi và đồng thời với phát triển xã hội, nguyên tắc đó phải được quán triệt và thực hiện trong từng bước đi, từng giai đoạn phát triển nhằm bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chăm lo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho người dân.

Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nguyễn Trọng Đàm tặng quà trẻ có hoàn cảnh đặc biệt tỉnh Thái Nguyên

An sinh xã hội là một hệ thống luật pháp, chính sách và các Chương trình do nhà nước và các tổ chức xã hội thực hiện nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất cũng có được một mức sống tối thiểu về thu nhập; bảo đảm tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin và truyền thông; có khả năng chống chọi, đứng vững trước mọi biến cố của cuộc sống như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, tai nạn thương tích, bệnh tật, tuổi già v.v... Hệ thống chính sách An sinh xã hội bao gồm ba trụ cột chính, đó là: các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường lao động như chính sách tạo việc làm; chính sách giáo dục, đào tạo và dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực; các chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và môi trường làm việc… nhằm toàn dụng nguồn lao động của đất nước, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm mọi người khi đến tuổi lao động đều có công ăn, việc làm, có thu nhập tự nuôi sống mình và gia đình. Đây là lưới an sinh quan trọng nhất, tích cực  và chủ động nhất. Cùng với các chính sách phát triển thị trường lao động, hệ thống các chính sách và dịch vụ Bảo hiểm nói chung, trong đó bảo hiểm xã hội do nhà nước thực hiện đóng vai trò quan trọng, là lưới an sinh thứ hai nhằm bảo đảm cho người lao động giảm thiểu các rủi ro khi không may bị mất việc làm, bị tai nạn, ốm đau hay khi hết tuổi lao động nghỉ hưu vẫn có một nguồn thu nhập ổn định cuộc sống, được chăm sóc sức khỏe. Cuối cùng là các chính sách và dịch vụ trợ giúp đối với những người yếu thế trong xã hội như người già hết sức lao động nhưng không có lương hưu, không có nguồn thu nhập để sống; người già cô đơn không có người thân chăm sóc, phụng dưỡng; người khuyết tật nặng không tự lao động kiếm sống; trẻ em mồ côi không còn cha mẹ; người nhiễm HIV.… Đây được coi là lưới an sinh cuối cùng để bảo đảm không một ai bị lọt qua, rơi xuống dưới hay bị “Bỏ lại phía sau”.

Còn nhớ những năm đầu của thập niên 90, khi đất nước mới ở giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, rất nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo của nước ta lúc đó tới 58%. Cũng có nghĩa có tới 58 % hộ gia đình sống trong nhà tranh, vách đất, nhà tạm bợ; thu nhập bình quân hàng tháng của mỗi người trong gia đình chỉ đạt dưới 15 kg gạo, tương đương 80 ngàn đồng, trong nhà không có thứ gì đáng giá. (Đó là chuẩn nghèo đầu tiên mà chúng ta xác định để thống kê phân loại hộ nghèo). Tỷ lệ thất nghiệp, không có việc làm lúc cao nhất lên tới xấp xỉ 20%. Vấn đề việc làm là thời sự nóng nhất không chỉ đối với Chính phủ mà còn đối với toàn xã hội cũng như mỗi gia đình. Thanh niên nông thôn không có việc làm kéo ra thành phố kiếm việc, hình thành hàng chục chợ lao động tự phát.

Trước tình hình đó Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương và quyết sách hết sức đúng đắn là tập trung ưu tiên nguồn lực, ban hành các cơ chế chính sách phù hợp, đặc thù huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và phát động toàn dân hưởng ứng tham gia thực hiện hai Chương trình mục tiêu Quốc gia lớn, đột phá là Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm và Chương trình mục tiêu Quốc gia Xóa đói, Giảm nghèo. Đối tượng tuy khác nhau, cơ chế, chính sách khác nhau nhưng mục tiêu của cả hai Chương trình đều là tập trung nguồn lực khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao vào sản xuất, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hóa… tạo việc làm mới thu hút lao động, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, cho các hộ nghèo, cận nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập từng bước vươn lên xóa đói, giảm nghèo.

Trung ương Hội phối hợp với nhà tài trợ tặng xe lăn cho người khuyết tật tại cộng đồng

Sau gần 20 năm thực hiện, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đến năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị chỉ còn khoảng 4%, tỷ lệ thất nghiệp chung chỉ còn 2,8%, và được duy trì, giữ vững cho đến hiện nay. Đó là một tỷ lệ tích cực trong nền kinh tế thị trường. Việc làm cho lao động nói chung và việc làm cho thanh niên nói riêng không còn là vấn đề lớn nữa, do đó từ năm 2015 chúng ta kết thúc Chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm mà tập trung quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng việc làm và năng suất lao động. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1992 xuống còn khoảng 3% năm 2020, cơ bản giải quyết xong vấn đề nhà ở cho hộ nghèo. Năm 2010 chúng ta đã hoàn thành xóa đói, về đích trước thời hạn mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá như là tấm gương sáng trong cuộc chiến chống nghèo đói toàn cầu. Từ năm 2011 Chương trình chuyển sang giai đoạn mới với mục tiêu Giảm nghèo bền vững và đến năm 2015 Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững thay đổi phương pháp đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, bên cạnh tiêu chí thu nhập còn tính đến mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ gia đình. Trong gần 30 năm thực hiện giảm nghèo ta đã 5 lần nâng chuẩn nghèo, do đó hộ nghèo hiện nay có mức sống khác xa so với hộ nghèo trước đây. Có thể nói trong tiến trình phát triển, Đảng và nhà nước luôn có những chương trình, chính sách nâng đỡ, hỗ trợ và thúc đẩy đối với khoảng 5 triệu hộ với 20 triệu người có mức sống thấp so với mặt bằng chung (nghèo và cận nghèo) cùng phát triển.

Tỷ lệ người lao động đang làm việc tham gia BHXH (bắt buộc và tự nguyện) tăng từ hơn 12% năm 1990 lên 32% năm 2020 với khoảng 25 triệu lao động, trong đó gần 1 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Số lao động tham gia Bảo hiểm thất nghiệp tăng nhanh, đến năm 2020 đã có 13,27 triệu người, đã thực sự là bà đỡ khi người lao động mất việc đồng thời góp phần thúc đẩy thị trường lao động phát triển và hoàn thiện. Đến năm 2020 diện bao phủ của Bảo hiểm y tế đạt hơn 90%. Nhiều nhóm đối tượng được nhà nước cấp thẻ BHYT miễn phí như Người có công với cách mạng, người nghèo, người cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào các dân tộc ít người sống trong vùng đặc biệt khó khăn và miền núi, biên giới hải đảo…

Số đối tượng được hưởng chính sách trợ giúp xã hội hàng tháng như người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người nhiễm HIV, người đơn thân nuôi con… tăng nhanh từ khoảng 1,6 triệu người năm 2010 lên hơn 3,4 triệu người hiện nay. Trợ cấp đột xuất cho người bị thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, tai nạn giao thông… ngày càng tăng cả về diện hưởng và mức hưởng.

 Mỗi năm Nhà nước dành hàng chục ngàn tỷ đồng cho các chính sách an sinh xã hội. Cùng với nguồn lực nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp, các Hội xã hội từ thiện và nhân dân cũng đã vận động, quyên góp được hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm tấn vật tư, hàng hóa trợ giúp cho người nghèo, người gặp hoạn nạn, những người yếu thế… sớm khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Điển hình nhất là trong cuộc chiến chống lại đại dịch Covid- 19 hiện nay, cùng với việc huy động cả hệ thống chính trị vào việc phòng chống dịch bảo đảm an toàn tính mạng cho người dân, Chính phủ đã dành chục ngàn tỷ đồng hỗ trợ các doanh nghiệp, người lao động duy trì sản xuất, ổn định đời sống, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân.

      Tuy vậy hệ thống an sinh xã hội của chúng ta cũng còn không ít thách thức. Tỷ lệ lao động có việc làm cao nhưng chất lượng việc làm còn thấp; lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, trong nông nghiệp còn nhiều; năng suất lao động và thu nhập còn thấp so với nhiều nước trong khu vực; Giảm nghèo chưa bền vững; tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện còn thấp; Còn một bộ phận không nhỏ người cao tuổi, người khuyết tật (nhất là nhóm người cao tuổi từ 65 đến dưới 80 tuổi) chưa được hưởng trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội còn thấp so với mức sống tối thiểu. Trong khi nước ta lại chịu tác động và ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, già hóa dân số, thiên tai, dịch bệnh…

       Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo để hệ thống an sinh xã hội đủ sức nâng đỡ người dân, chống chọi được mọi biến cố trong cuộc sống, ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững và để “không ai bị bỏ lại phía sau” chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp như: Nâng cao năng lực quản lý và dự báo về thị trường lao động. Tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc trưng là công nghệ số và kinh tế số đang diễn ra rất nhanh chóng. Khuyến khích đầu tư cho nghiên cứu các ngành nghề mới, sản phẩm mới; chủ động ứng phó với xu hướng thừa lao động do công nghệ tự động thay thế con người trong nhiều lĩnh vực. Tăng nhanh tỷ lệ người lao động tham gia BHXH bắt buộc. Có chính sách hỗ trợ hấp dẫn hơn để người lao động, nhất là lao động tự do, lao động khu vực nông nghiệp tham gia BHXH tự nguyện ngay khi còn trẻ; bảo đảm an toàn trong dài hạn quỹ BHXH. Từng bước hạ độ tuổi hưởng trợ giúp xã hội hàng tháng đối với người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp xã hội; tăng diện được hưởng trợ cấp đối với người khuyết tật nhẹ nhưng không lao động được, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Rút ngắn lộ trình nâng mức trợ giúp xã hội cơ bản cho các đối tượng để sớm đạt ít nhất bằng 65 – 70% chuẩn nghèo ở mỗi giai đoạn. Khuyến khích đầu tư phát triển mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế - xã hội như cơ sở chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật; phát triển công tác xã hội tại cộng đồng. Xây dựng cơ sở dữ liệu về an sinh xã hội của công dân; tăng cường năng lực quản lý và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở các cấp, nhất là cấp cơ sở, bảo đảm cho người lao động, người dân tiếp cận, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội một cách kịp thời, đầy đủ và minh bạch./.

Nguyễn Trọng Đàm
Nguyên Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH, Phó Chủ tịch Trung ương Hội
 

 

Tin liên quan